Khóa luận cách thức xây dựng thủ tục tố tụng dân sự rút gọn trong Pháp Luật Việt Nam
Trong hoạt động tố tụng, không nhất thiết
phải áp dụng một thủ
tục tố tụng chung
cho tất cả các loại vụ việc có mức độ phức tạp khác nhau. Hiện nay, Bộ luật Tố Tụng Dân Sự 2004 đã có những thủ
tục khác nhau cho việc giải quyết vụ án dân sự và việc dân sự. Ở đó, thủ tục giải
quyết việc dân sự có thể được coi là thủ tục rút gọn trong Tố Tụng Dân Sự. Tuy nhiên, Bộ Luật Tố Tụng Dân Sự lại chưa quy định một thủ tục giải quyết mang tính rút ngắn gọn riêng cho án dân
sự. Với thực tiễn phát triển của kinh tế - xã
hội của nước ta hiện nay, việc xây dựng một thủ tục tố tụng rút gọn riêng trong
Tố Tụng Dân Sự nói chung và vụ án dân sự nói riêng là điều rất cần thiết.
Phần nội dung
I. Khái quát chung về Thủ tục tố tụng dân sự rút gọn.
Trong khoa học luật Tố tụng nói chung
và khoa học luật tố tụng dân sự nói riêng, các thủ tục Tố tụng được chia thành
hai loại là thủ tục tố tụng thông thường và thủ tục tố tụng đặc biệt. Thủ tục
rút gọn là một dạng của tố tụng đặc biệt. Đây là hình thức thủ tục tố tụng dân
sự được áp dụng ở nhiều nước trên thế giới.
Thủ tục tố tụng dân sự rút gọn là sự giản lược, đơn giản hóa một số khâu
trung gian không cần thiết trong quá trình giải quyết vụ án dân sự nhằm xử lí
nhanh chóng, kịp thời nhưng vẫn đảm bảo đúng đắn chính xác.
Sự giản lược, đơn giản hóa các khâu
trung gian như trên cần được hiểu theo một nghĩa rộng là đơn giản cả về phạm vi
và các thủ tục cũng như về thời hạn và các giai đoạn.
Ở Việt Nam ,
thủ tục tố tụng dân sự rút gọn có thể được coi là đã từng được quy định trong
pháp luật của nước ta từ thời Việt Nam dân chủ cộng hòa (1946-1980).
Tuy nhiên, thời đó, hình thức tố tụng rút gọn này hạn chế ở chỗ chỉ có một hình
thức duy nhất là xét xử sơ thẩm đồng thời là chung thẩm và chỉ được áp dụng đối
với một loại vụ án- các vụ tranh chấp dân sự có giá ngạch thấp. Thủ tục tố tụng
dân sự rút gọn thời kì này nằm rải rác trong một số văn bản như:
+ Sắc lệnh 13/SL ngày 24/1/1946 về tổ
chức Tòa án và quy định các ngạch Thẩm phán. Sự rút gọn trong văn bản này thể
hiện ở quy định Chánh án xử một mình.
+ SL 51SL 17/4/1946 quy định thẩm
quyền tòa án sơ cấp về dân sự và thương và Điều 12 Luật tổ chức Tòa án nhân dân
năm 1960 quy định: có thể xét xử một thẩm phán, không có hội thẩm nhân dân
trong vụ án nhỏ, giản đơn, không quan trọng.
+ Nghị định 32 ngày 6/4/1952 của Bộ
Tư Pháp. Thủ tục rút gọn thể hiện ở chỗ Tòa án huyện có quyền chung thẩm
+ Thông tư 4013/TTC 9/5/1959 của Bộ Tư
pháp và thông tư liên bộ thẩm phán – Tòa án nhân dân tối cao số 93/TC ngày
11/11/1959 đã quy định Tòa án huyện có thẩm quyền chung thẩm một số lĩnh vực.
+ v.v..
Hiện nay, Bộ luật TTDS Việt Nam 2004
chưa đề cập đến thủ tục TTDS rút gọn. Quá trình giải quyết việc dân sự tuy có
đơn giản, nhưng đó không thể coi là thủ tục TTDS rút gọn nói chung. Thủ tục
TTDS rút gọn trong đề tài này chủ yếu muốn hướng tới trình tự giải quyết một vụ
án dân sự.
II.
Cần xây dựng thủ tục TTDS rút gọn ở
Việt Nam
Ø Đường lối cải cách Tư pháp của Đảng, Nhà nước.
Ngày 2/6/2005, Bộ Chính trị đã ra
Nghị quyết về Chiến lược cải cách Tư pháp đến năm 2020 cùng với quyết định đôn
đốc: “hoàn thành các nhiệm vụ mà Nghị
quyết 08/NQ-TN ngày 2/1/2002 của Bộ chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm công
tác Tư pháp trong thời gian mới”. Một trong những nhiệm vụ đó là việc cải
cách thủ tục tố tụng dân sự hiện hành.
Ø Các nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự.
Bởi giữa luật dân sự và luật tố tụng
dân sự có mối quan hệ mật thiết nên các nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự
là cơ sở để xây dựng thủ tục tố tụng dân sự rút gọn. VD: Các nguyên tắc tại Điều
4,5,6,7,12 Bộ luật dân sư 2005.
Những nguyên tắc này sẽ giúp giải
quyết vụ việc dân sự một cách nhanh chóng, đơn giản. Ví dụ, khi giao dịch dân
sự không tuân theo những nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự thì Tòa án có
thể vận dụng chính những nguyên tắc đó để giải quyết. Tòa án có thể buộc các
bên phải xác lập thực hiện cá quyền- nghĩa vụ đã thỏa thuận hoặc tuyên bố giao
dịch đó vô hiệu.
Ø Tính phù hợp giữa thủ tục tố tụng dân sự được xây dựng với tính chất của
vụ việc.
Thủ tục tố tụng dân sự nên được áp
dụng với những vụ việc có giá trị tài sản tranh chấp không lớn, chứng cứ rõ
ràng hoặc bị đơn thừa nhận nghĩa vụ. Bởi lẽ, tính chất của những vụ việc như
thế rất đơn giản, không cần thiết phải trải qua đầy đủ các giai đoạn cũng như
tiêu tốn nhiều thời gian như thủ tục tố tụng dân sự thông thường.
Hiện nay, ở nước ta, các tòa án đang
phải giải quyết một lượng lớn các vụ án dân sự, kinh tế, lao động, hôn nhân và
gia đình.
Không có sự ưu tiên nào, tất cả các vụ án này đều phải trải qua những thủ tục
chung rất phức tạp. Chính điều này đã dẫn tới hiện tượng quá tải trong xét xử ở
các cấp, số lượng tồn động vụ án hàng
năm tăng cao. Theo báo cáo tổng kết ngành tòa án các năm 2005 đến 2009. Tỷ lệ
các vụ án dân sự theo nghĩa rộng chiếm tỷ trọng rất lớn:
Năm
|
2005
|
2006
|
2007
|
2008
|
2009
|
TAND thụ lí
|
129.927
|
143.580
|
171.681
|
192.336
|
214.174
|
Giải quyết
|
150.195
|
160.979
|
188.992
|
174.732
|
194.398
|
Tỉ lệ (%)
|
87
|
89
|
90.54
|
90.8
|
90.7
|
Trong khi đó, thực tế, có nhiều vụ
án, kể cả những vụ án rất đơn giản nhưng việc giải quyết bị kéo dài không cần
thiết, vi phạm nghiêm trọng đến các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Ví
dụ, nhiều trường hợp nguyên đơn khởi kiện yêu cầu bị đơn thực hiện nghĩa vụ
phát sinh từ hợp đồng, không có sự phản đối của bị đơn nhưng bị đơn vẫn không
chịu thực hiện nghĩa vụ. Bên cạnh đó, nhiều trường hợp không có sự thừa nhận
của bị đơn về nghĩa vụ thực hiện nhưng
có chứng cứ rõ ràng, đầy đủ, các sự kiện đã được xác định. Tòa án không mất nhiều
thời gian điều tra, xác minh, áp dụng pháp luật dễ dàng nhưng vẫn phải xử theo
thủ tục chung.
Ngoài ra, việc tiến hành và kéo dài
những thủ tục không cần thiết đã khiến cho không ít các trường hợp, các tranh
chấp dân sự từ đơn giản phát triển thành các vụ án nghiêm trọng do không được
giải quyết kịp thời. Ví dụ, đối với những vụ án đơn giản, sau khi đã trải qua
một thời gian khá dài để Tòa án có quyết định, nhiều bị đơn vẫn lạm dụng quyền
kháng cáo lên Tòa án Phúc thẩm để xem xét lại nội dung vụ án. Điều này, dễ dẫn
đến hậu quả, mâu thuẫn giữa các đương sự thêm gay gắt, thậm chí, gây tổn hại
cho nhau, để rồi chỉ từ một tranh chấp dân sự đơn giản lại chuyển thành một vụ
án hình sự.
Như vậy, áp dụng thủ tục tố tụng dân sự rút gọn sẽ khắc phục được tình
trạng trên, để các quy định pháp luật tố tụng dân sự mềm dẻo, linh hoạt khi áp
dụng với các vụ việc có tính chất khác nhau.
Ngoài ra, nếu áp dụng thủ tục rút gọn
trong tố tụng dân sự thì các chi phí về thời gian, tiền bạc, công sức của Nhà
nước, nhân dân sẽ được tiết kiệm một cách đáng kể.
Chính vì có cơ sở thực tiễn như trên,
mà trong dự thảo Bộ luật TTDS 2004, thủ tục tố tụng dân sự rút gọn đã được đưa
vào chương số XV (dự thảo 5, 8, …).Tuy nhiên, vì một vài lý do mà vấn đề này đã
không được ghi nhận khi bộ luật TTDS 2004 chính thức ra đời. Tuy nhiên, quacác
dự thảo, phần nào cũng thấy rằng, nhà làm luật đã có ý thức về tầm quan trọng
của thủ tục tố tụng dân sự rút gọn.
Một sơ sở thực tiễn nữa cũng rất quan
trọng trong việc thúc đẩy việc xây dựng thủ tục tố tụng dân sự rút gọn hiện nay
là thủ tục tố tụng dân sự rút gọn không phải là thủ tục mới mà đã từng xuất hiện ở Việt Nam
trước đây (xem mục I.2) và nhiều nước
trên thế giới như Nga, Quebec, Canada, Nhật Bản, Trung Quốc. Vì vậy, việc xây
dựng thủ tục tố tụng dân sự rút gọn hiện nay là phù hợp với xu thế chung, đáp
ứng được yêu cầu xã hội, có thể tận dụng được những kinh nghiệm của những quy
định trước đây của nước ta và trên thế giới. Hơn nữa, khác với thời kì trước
đây (thời kì không cho phép thực hiện thủ tục tố tụng dân sự rút gọn), cơ sở
vật chất của Tòa án ngày nay ngày càng được cải thiện, đội ngũ thẩm phán các
cấp được kiện toàn về số lượng và chất lượng. Sau khi tăng thẩm quyền xét xử
cho Tòa án cấp huyện, năng lực của các thẩm phán ngày càng được khẳng định. Tất
cả những yếu tố này sẽ tạo tiền đề thuận lợi cho việc xây dựng thủ tục tố tụng
dân sự rút gọn ở nước ta hiện nay.
Từ những cơ sở lý luận và thực tiễn đã phân tích ở
trên, việc áp dụng thủ tục tố tụng dân sự rút gọn sẽ có những ưu điểm và thuận
lợi như sau:
Thứ nhất, thủ tục tố tụng mềm dẻo, linh hoạt những
trình tự đơn giản sẽ mang lại hiệu quả thiết thực cho cơ quan tố tụng và người
tham gia tố tụng dân sự như rút ngắn được thời gian công sức, kinh phí cho nhà
nước và nhân dân, góp phần làm giảm đáng kể về công việc đối với cơ quan cơ
quan tiến hành tố tụng.
Thứ hai, trong nền kinh tế thị trường, giải
quyết nhanh chóng, dứt điểm các tranh chấp đơn giản là yêu cầu cần thiết. Có
như vậy, cơ quan tiến hành tố tụng mới có thời gian tập trung vào vụ việc phức tạp hơn.
Thứ ba, thủ tục tố tụng dân sự rút gọn tạo
thuận lợi cho đương sự trong việc khởi kiện, tham gia tố tụng và các hoạt động
khác vì không phải trải qua tất cả các giai đoạn.
Thứ tư, các phán quyết là kết quả của thủ
tục tố tụng dân sự rút gọn sẽ có hiệu lực chung thẩm, tránh tình trạng các
đương sự làm quyền kháng cáo nhằm trì hoãn thực hiện nghĩa vụ. Từ đó, sẽ bảo vệ
quyền lợi của những người khác.
Thứ năm, thủ tục tố tụng dân sự rút gọn giúp
nâng cao hiệu suất công tác xét xử của Tòa án; thẩm phán có thể tự chủ, tự chịu
trách nhiệm trong phạm vi được giao.
III. Cách thức xây dựng và các yêu
cầu trong việc xây dựng thủ tục TTDS rút gọn ở Việt Nam hiện nay.
a) Đối tượng áp dụng
Chỉ nên áp dụng thủ tục
TTDS rút gọn với vụ án ít phức tạp và nên được áp dụng cho cả cấp xét xử sơ
thẩm và phúc thẩm. Đó là những vụ kiện có nội dung sự việc đơn giản, chứng cứ
tương đối đầy đủ rõ ràng, không cần nhiều thời gian để điều tra, xác minh, vụ
án dân sự có giá ngạch thấp; các đương sự đã tự thỏa thuận được với nhau, v.v..
Thứ nhất, đối với những
vụ kiện có nội dung sự việc đơn giản, chứng cứ tương đối đầy đủ, rõ ràng. Đây có thể hiểu là những vụ kiện mà
nguyên đơn xuất trình được chứng cứ bằng văn bản để chững minh cho yêu cầu của
mình và tất cả người tham gia khác không phản đối về chứng cứ đó; Tòa coi là
đáng tin cậy và việc bị đơn phải thực hiện nghĩa vụ là đương nhiên. Mục đích
của nguyên đơn khi khởi kiện chỉ là cần có bản án của Tòa làm cơ sở yêu cầu cơ
quan thi hành án cưỡng chế thi hành là vì pháp luật buộc phải như vậy. Ví dụ
cho những vụ việc kiểu này là:
-
Việc
chủ sở hữu yêu cầu người thuê tài sản phải trả lại tài sản thuê trong trường
hợp hết hạn của hợp đồng thuê.
-
Việc
chủ sở hữu yêu cầu đòi lại tài sản cho thuê từ người thứ ba được người cho thuê
tài sản cho thuê lại nhưng không có sự đồng ý bằng văn bản của chủ tài sản,
ngoài ra các bên không có tranh chấp nào khác.
-
Việc
yêu cầu tuyên bố vô hiệu đối với giao dịch được kí kết với người mất mất năng
lực hành vi dân sự đã có bản án có hiệu lực pháp luật của tòa án xác định thời
điểm, tình trạng mất năng lực của họ mà không phải giải quyết hậu quả pháp lí
từ giai đoạn này.
-
Yêu
cầu bị đơn phải thực hiện quy định về hình thức của giao dịch mà pháp luật quy
định.
----
Click vào link để tải full tiểu luận Cách thức xây dựng thủ tục tố tụng dân sự rút gọn trong pháp luật Việt Nam
- Luật Việt Nam
- Luật Kinh Tế
- Pháp Luật Việt Nam
- Thủ Tục Tố Tụng Dân Sự
- Cách thức xây dựng thủ tục tố tụng dân sự
- Tiểu luận, luận văn, khóa luận, đề án
0 Comment "Cách thức xây dựng thủ thục tố tụng dân sự rút gọn trong Pháp Luật Việt Nam"